Monday, November 28, 2011

người về housing

VĂN CHƯƠNG


Ðừng bao giờ đặt lòng tin vào nụ cười của một người đàn bà, nếu chúng ta đang ở vào tuổi năm mươi. Nhưng tôi đã vội vàng tin vào một nụ cười như vậy, khi tôi và nàng dừng lại ở trạm xăng bên đường. Buổi chiều thoi thóp trên khu Plaza phía bên kia, nơi những căn phố đang tấp nập đông vui cuối tuần và phong cảnh mang một chút không khí tươi tắn của mùa thu. Ai đó đã để những năm tháng thanh xuân mình tan mất vội vàng như một vệt nắng trong ngày mưa. Nhưng với Song Tường thì không. Nàng chưa bao giờ có vẽ là một người đàn bà sắp bước qua tuổi bốn mươi. Nụ cười của nàng đang nói lên điều đó. Tôi bước xuống xe, đến bên cạnh xe nàng.

- Ðừng nói với tôi là Tường bị lạc đường nhé?

Nàng gật đầu:

- Tường lạc thật rồi. Anh có biết lối nào để ra Hightway 6 không?

- Tường hỏi tôi rồi tôi biết hỏi ai?

Tôi nhìn đồng hồ. Ðã 6 giờ 30 phút. Bằng mọi cách tôi phải tìm hướng để về lại Austin trước khi trời tối. Trước khi mọi chuyện trở nên tồi tệ từ đôi mắt kém của mình. Tôi không phải là một kẻ lái xe đáng tự hào, trong khi đường phố ở Houston luôn là một thách thức mới mẻ đối với tôi. Mỗi lần từ Houston trở về, là mỗi lần tôi gặp một sự lầm lạc khác nhau.

Dù sao, tôi cũng sắp phải nói lời chia tay với Song Tường. Có lẽ trong thâm tâm nàng, chuyện không tìm được hướng đi đúng để về nhà, không phải là mối bận tâm. Nơi cư trú của nàng không cách xa nơi này bao nhiêu. Nàng sẽ rong chơi chốc lát trên một vài bloc đường, trên chiếc xe Lexus đời mới còn thơm mùi da nệm. Qua những hàng cây dầy nhá nhem bóng tối và cuộc đời an bình bay theo cánh gió buổi chiều. Sau chiếc kính mát đắt tiền làm tăng vẽ hấp dẫn trên khuôn mặt, tôi không thấy màu mắt của nàng. Nhưng tôi biết Song Tường đang nhìn tôi bằng cái nhìn bồi hồi của khu rừng che dấu nỗi bí ẩn. Vẫn là tia nhìn khi tôi trông thấy nàng cách đây hai năm. Ngày nàng vừa trở về từ trại tị nạn, chuẩn bị kết thúc thiên phóng sự nói về những thuyền nhân còn kẹt lại trên đảo. Và bắt đầu một đời sống độc thân- tại chỗ. (Nàng đã thố lộ với tôi như vậy).

Song Tường chờ nghe tôi nói điều gì, trong khi môi nàng hé ra, kềm giữ lời xin lỗi. Hình như màu son môi của nàng màu dâu hay một màu gì đó tương tợ. Một màu mà ngày xưa tôi rất ghét. Nhưng bây giờ chắc còn phải xét lại. Có quá nhiều màu sắc trên những đôi môi giống như cuộc đời của người đàn bà. Mỗi màu là một dự báo tình cảm nằm chìm khuất từ trái tim non yếu nhưng mỗi nhịp đập có khả năng làm chấn thương mọi tâm hồn chai đá. Không phải mới vừa đây thôi nàng đã từng nói trước mặt mọi người là nàng sẽ dẫn tôi tìm gặp con đường nào về Austin gần nhất. Bây giờ chính nàng đang “ngồi đồng” sau tay lái, lặng yên theo dõi phản ứng của tôi. Tôi bỗng trở thành kẻ dẫn đường bất đắc dĩ. Nhưng nhằm nhò gì ba cái lẻ tẻ. Ngày xưa đi lính lạc mấy phen trong làng Thượng ở Bảo Lộc còn chưa sao, huống hồ gì mấy cái giao lộ đèn xanh đèn đỏ có vẽ sẵn tên đường?

- Tôi nghĩ là chúng ta nên chia tay nơi đây và đi về hai hướng. Tôi nói và nghĩ đến một câu nói lối trước khi vào một bài vọng cổ mùi mẫn đầy những éo le nước mắt. Chỉ thiếu có khăn tay sụt sùi ngấn lệ. Và một mái đầu nghiêng xuống trên vai áo cơ hàn- đủ cho một vở tuồng cải lương theo kiểu “thuyền ra cửa biển”... “Tôi và Tường nên chấp nhận chỉ một người lạc thôi. Chịu không”?

- Chịu. Nhưng Tường sẽ đi về hướng nào?

- Hướng này. Tôi chỉ về phía tay trái của tôi- hướng mà tôi tin rằng sẽ đưa về nơi của nàng- Còn tôi sẽ đi về hướng ngược lại. Tôi nói tiếp, lời nói sao giống như phim tập Hồng Kông: “Tường nên bảo trọng”.

- Vâng, còn anh, về bình an nhe. Sorry đã không làm tròn bổn phận. Khi nào xuống, nhớ gọi phone cho biết.

- Khi nào xuống, tôi sẽ gọi phone. Tôi lập lại.

- Sinh nhật Tường đúng ngày Thanksgiving.

Nàng nói bao nhiêu đó và bàn tay đưa ra. Những ngón mềm như thể không có xương trong đó. Một vòng cộm từ chiếc nhẫn ràng buộc đời nàng với một ai đó nhắc cho tôi nhìn lại thực tế. Giữa mộng và thực đôi khi không rõ ràng vì không có ranh giới phân chia. Hoặc nếu có, mơ hồ vì bị nắng mưa đời này vùi lắp. Người ta luôn nhìn về phía trước với lòng phơi phới niềm vui, mọi quá khứ trầy trụa sẽ nằm im không bao giờ hồi sinh để làm bận lòng ai đó. Phải vậy không? Bàn tay nàng nằm yên trong tay tôi vừa đủ lâu để tôi thổn thức trên đường về. Ðủ lâu để theo tôi vào sâu trong giấc ngủ.

Vậy là chúng tôi chia tay nhau. Có sự chứng kiến của cây xăng và con đường chiều bắt đầu mịt mùng. Nơi tôi sẽ về có khoảng cách hơn hai trăm dặm với đồi núi mênh mông và đôi lúc có rừng thông bạt ngàn, gợi nhớ trong tôi một Ðà Lạt thời lính tráng. Và những cơn buồn ngủ thường xuyên sẽ làm tôi dừng lại nơi mấy cây xăng bên lề. Nỗi buồn choáng ngợp trong xe, cùng với mùi thơm từ những ly cà phê bị đổ vương vãi trên nệm ghế. “...Người ơi khi cố quên là khi lòng nhớ thêm...” Một câu hát rất hay trong bài nhạc “Sầu Lẻ Bóng”. Hãy quên đi những gì có thể quên được khi tôi nổ máy xe và nhìn theo phía sau xe nàng. Hãy để cho mọi hạnh phúc cùng những tương lai hồng chảy trôi về phía trước. Vì đó là nơi chốn của nàng. Ðêm sắp xuống theo những ngọn đèn chạy dài theo lộ. Những ngã tư phiêu bồng chập chùng những bóng lá, những đời cây. Những son phấn và hương nồng huyền ảo từ thân thể nàng có còn tồn tại đâu đây hay mất tăm giữa phố phường bụi bặm?



Song Tường là một người đàn bà có đủ bản lảnh quyến rũ độc giả tìm đến với tờ báo “Ðời Sống” và người ta ghiền đọc bài viết của nàng như ghiền cà phê, thuốc lá. Vắng mặt nàng một hay hai số báo là lập tức Chủ Nhiệm phải chuẩn bị thì giờ để trả lời những cú phone từ các nơi gọi tới. Ða số là những lời hỏi thăm đầy khích lệ. Những ngưỡng mộ cùng những lo lắng làm như tình cờ. Một vài người táo bạo hơn – biết nàng độc thân- lùng sục vào những cánh cửa khép kín đời tư nàng. Họ muốn được đích thân cùng nàng bước vào cuộc hành trình đi về tương lai. Làm như tâm hồn nàng luôn chờ đợi những tiếng gõ lạc đường và trái tim nàng mở ra theo lời Kinh Thánh: “Hãy xin sẽ được. Hãy tìm sẽ gặp. Hãy gõ cửa, sẽ mở cho...”

Trên tờ nguyệt san nàng đang cộng tác, mục “Tạp Ghi Của Ðời Sống” là mục đứng hàng đầu trong tất cả mọi mục- nếu không muốn nói là không có nó, tờ báo sẽ trở thành nhạt nhẽo. Như một tay đầu bếp tài ba, nàng đã cung cấp cho thực khách những món ăn nóng hổi đầy hương vị. Trong phạm vi chữ nghĩa cũng vậy, nàng làm cho người đọc không bao giờ nhàm chán những gì nàng viết- về đủ mọi khía cạnh.

Trong đó, nàng phân tách sự kiện theo mắt nhìn riêng tư của một nhà văn. Ðôi lúc nàng gởi đến độc giả một chút kinh nghiệm sống. Nó không nhất thiết là những hạnh phúc. Kinh nghiệm sống đó có thể là một thất bại. Một đắng cay hay một nỗi buồn. Nhưng quan trọng là nó phải được đào xới, được vớt lên từ những tình huống thật, không hư cấu màu mè. Không hoa lá cành, rào trước đón sau. Thỉnh thoảng nàng có hơi đốp chát khi linh cảm những câu hỏi tiềm ẩn một trò đùa tinh nghịch. Ðây chính là lý do làm cho nàng thành công. Vì không phải ai cũng làm được như vậy qua lối viết bay bướm và đầy ấp tình người.

Dĩ nhiên nàng không tránh khỏi chủ quan khi đụng đến một vài vấn đề mang tính chất cá biệt. Chẳng hạn như sự bội phản của người chồng hay người vợ và kéo theo một mối tình tay ba. Vì với vấn đề này, kinh nghiệm giống như một thấu kính vạn hoa. Mỗi người mang một vết đau khác nhau, cho nên thời gian làm lành lặn vết thương sẽ khác nhau. Cũng chính trong đề tài này, đã xô đẩy tôi gặp nàng.

Tôi không nhớ là câu chuyện bắt đầu từ một bài viết nào của Song Tường. Nhưng khi tôi gặp nàng trong một buổi dạ tiệc mừng tờ báo tròn mười tuổi, tôi đã biết tại sao chính nàng chớ không phải ai khác đã làm cho tờ báo ăn nên làm ra. Ban đầu tôi không biết nàng, vì tôi là một người viết không chuyên nghiệp ở địa phương khác, được vị Chủ Nhiệm ưu ái mời đến tham dự cho đông vui. Thứ hai là nàng vừa để tên tuổi mình bay theo những cơn bão trong cộng đồng, qua một bài viết làm phấn khởi những người đàn ông ngoại tình. Trong đó, không giống như những lần trươc, lần này nàng đề cập vấn đề trong tư cách của một kẻ tham dự vào trò chơi thay vì kẻ đứng ngoài.

Có tất cả năm người trong chiếc bàn tròn đề tên “Báo Chí”. Năm người kia chưa đến, hay đã đến rồi nhưng đi lạc vào những chỗ khác, tôi không biết. Song Tường ngồi đối diện tôi cùng với một người đàn ông không dính líu gì đến việc viết lách. Nàng giới thiệu đó là một người ái mộ nàng. Nghề nghiệp: Mua bán nhà cửa- kiêm luôn khai thuế- kiêm luôn bán vé máy bay. Hình như tên của ông tôi có thấy nhiều lần trên các trang quảng cáo. Như vậy ông cũng dính líu đến văn chương chữ nghĩa- dù không trực tiếp. Và tôi không có dịp để hỏi là ông thành công nhiều nhất trong nghề nào?

Hai vợ chồng ngồi kế bên tôi trang phục khỏi chê vào đâu và người chồng chưa gì đã mở chai rượu mời chúng tôi. Người chồng đang phụ trách trang thể thao hay một mục gì đó tương tự, tôi không nhớ rõ. Nhưng ông có lầm lẫn chăng khi phụ trách một mục đòi hỏi ở một người có tầm vóc đáng nể, trong khi ông lại có dáng điệu ốm yếu. Vợ ông cũng là thành phần “ăn theo”, ngồi cách tôi một ghế, nói năng nhỏ nhẹ vừa phải. Thỉnh thoảng dùng chân đá nhẹ chân chồng dưới gầm bàn để cảnh giác hoặc để hạn chế những lời bông lơn sa đà của chồng (khi tôi tình cờ cúi xuống để nhặt chiếc khăn lau). Song Tường không ngần ngại gì để phô bày phần ngực nửa kín nửa hở dưới chùm ánh sáng của những ngọn pha lê buông xuống bàn ăn. Chiếc robe đen tương phản với màu da và tôi tò mò không biết màu đen bây giờ có phải là một mốt thời thượng hay không. Nhưng với trang phục đó, người ta dễ cảm thấy đêm tối lùi sâu hơn vào những ngỏ ngách mênh mông của khu tiền sảnh. Cuộc đời đôi lúc bỗng trở nên lắng xuống, bớt ồn ào. Và chai rượu cầm trên tay người đàn ông đã vơi đi một chút. Tôi không biết điều gì mơ hồ trong tôi khi nhìn nàng, dường như một màu sắc nào đó trên gương mặt nàng không hài hòa hay tại tôi khó tính. Khi đến vòng rượu thứ hai, tôi mới phát giác ra lý do làm tôi có ấn tượng bần thần về màu son môi của nàng. Ðó là màu phượng đang nở hết độ xuân thì của nó và đâu đây rền rỉ trong tôi một hồi kèn chia tay.

Màu son trên môi gợi nhớ cuộc tình chìm sâu hai mươi lăm năm. Và giữa chúng tôi không còn ai có cơ hội để chạy trốn một quá khứ chằng chịt những vết thương. Một quá khứ làm bằng những năm tháng tiêu hao đời nhau. Ðúng hơn là chỉ một mình đời tôi, chớ không phải đời Ng. Nàng ở bên ngoài những đêm thâu chìm khuất như đêm nay. Làm sao tôi lại có thể đào xới một màu sắc tưởng như đã nằm im dưới đáy huyệt mộ giữa tiếng ồn ào vọng động từ tiếng loa phóng thanh nơi bục gỗ- nếu không có màu son trên môi của Song Tường.

Ban nhạc “cây nhà lá vườn” đang chơi một tấu khúc của ai đó, và bản “My Heart Will Go On”, rút từ trong phim Titanic. Người nữ ca sĩ có mái tóc vàng nhân tạo, mặc đồ giống như đang ở trần, chuẫn bị micro và cầm nó trong tay bằng một cách thức điệu nghệ.

            Bây giờ tôi uống từng ngụm âu sầu và nhìm chăm chăm vào môi Song Tường đang hé ra, nửa muốn mời mọc thách thức, nửa muốn kềm giữ khoảng cách người đàn ông ngồi kế mình. Người đàn ông có nhiều nghề trong tay đang thỉnh thoảng phóng đôi mắt của mình vào trong phần ngực không dấu diếm của nàng. Ông tìm kiếm một chút đất đai màu mỡ nào để làm cơ sở cho cuộc giới thiệu với thân chủ sắp tới chăng?

- Mai mốt Tường sẽ dọn về khu Bellaire. Anh có tìm được cho Tường một căn nào có bốn phòng có lầu. Nếu quay ra hướng mặt trời càng tốt.

- Dễ ợt. Với ai thì khó khăn tốn kém lôi thôi, với em thì chỉ trong ba mươi giây.

- Khoảng bao nhiêu? Nàng hỏi.

- Từ một trăm hai đến một trăm ba mươi. Nhưng gia đình em có hai mẹ con, làm gì mà ở đến bốn phòng? Hắn dò xét.

- Tường thích thoải mái.

- Nhưng xa chợ...

- Chuyện đó không quan trọng.

Vị Chủ Nhiệm tờ báo “Đời Sống” mới vừa đi ngang, và ghé lại bắt tay từng người. Ðó là một người đàn ông vui tính, có mái tóc bồng bềnh và khuôn mặt của một tài tử đẹp trai. Tôi nghĩ tại sao ông không thể trở thành diễn viên điện ảnh mà lại thích lao vào một nơi đầy những gió tanh mưa máu? “Anh uống với chúng tôi ly rượu được không?” Người đàn ông bán nhà hỏi.

- Một chút thì được. Vì lát nữa đây tôi sẽ lên có vài lời với quan khách. Không dám la đà. Song Tường có lên không?

- Nói chuyện gì?

- Chuyện gì thì nói. Sau khi tôi giới thiệu thì lên nhe?

Tôi không thể uống được nhiều như những người bạn chung bàn. Ly rượu cầm trong tay bắt đầu thấy ngán ngẫm. Hai người kia càng uống càng hăng. Những món ăn lần lượt được thanh toán theo nhịp điệu ráo riết. Song Tường hình như có uống chút chút và chính vì vậy tôi thấy đôi má nàng ửng lên một màu hồng không phải màu phấn. Không biết vô tình hay cố ý, đôi lúc nàng để đôi má đang ững màu đó sát rạt bên môi của người bên cạnh, trong khi người đàn ông hình như sẵn sàng chờ đợi những dịp may hiếm hoi như vậy. Ðâu có hề gì những cái vụn vặt trong đời sống. Ðâu có ai giẫm nát đời nhau qua những đụng chạm nhẹ nhàng dù hàm chứa đầy ngụ ý đó đâu? Mọi thứ đều có chỗ đứng của nó. Tôi nghĩ vậy.

- Anh Yên sao không thấy uống? Nàng hỏi.

- Có uống, nhưng không được nhiều.

Tôi nhìn đăm đăm và bắt gặp nụ cười nàng. Nó gợi cho tôi một ánh lửa nhỏ reo vui bên ngoài sân thềm chật tối. Chưa đủ để những bước chân đêm xô giạt tìm về với nhau. Nhưng tôi cảm thấy bị lạc lòng trong chốc lát. Nàng đưa bàn tay lên sửa lại mái tóc, ngón tay có đeo nhẫn. Trên vòng nhẫn có một mặt cẫm thạch. Tôi không biết lát nữa đây nàng sẽ lên nói gì. Về tình yêu chăng? Hay về một nỗi đau cuối đời nào đó?

Làm sao để những lời tuôn chảy từ môi miệng vừa thơm mùi rượu kia có khả năng thuyết phục người nghe tin rằng nàng có kinh nghiệm về một đỗ vỡ, khi nàng chưa ngoài bốn mươi? Làm sao để những người khó tính thấy rằng giải pháp của nàng đưa ra là một cánh cửa mở vào một hạnh phúc duy nhất? Nhưng đó là việc của nàng. Nàng đã từng làm như vậy.



“Kính thưa quý vị,

            Thật tình mà nói tôi không dám lên đây để trình bày cùng quý vị một kinh nghiệm mà tôi biết chắc rằng tôi không thể vượt qua bất kỳ một ai đang có mặt tại đây. Cái kinh nghiệm mà tôi muốn nói ra, nó thiết thực và gần gũi với quý vị. Nó là một nhu cầu không thể thiếu. Nhờ nó mà chúng ta cảm biết được cuộc đời nầy quyến rũ hơn và thú vị hơn. (có vài tiếng vỗ tay bên dưới). Tôi lên đây vì hôm nay là ngày kỷ niệm tờ báo tròn 10 tuổi và tôi là một thành viên trong tờ báo đó. Và trớ trêu hơn, tôi là người được chọn phụ trách mục Ðời Sống. Và đời sống sẽ là gì, nếu đời sống đó không luôn luôn được ấp ủ và khơi dậy bởi những hương vị nồng nàn của Tình Yêu. Thật buồn rầu cho những ai đi qua những năm tháng thanh xuân này với tấm lòng thờ ơ một lời kêu gọi khẩn thiết từ một người khác phái (lại tiếng vỗ tay). Nhưng điều tôi muốn nói tại đây, không chỉ gói ghém hạn hẹp trong môt thứ tình yêu được chọn lọc và thẩm thấu theo một phương thức cũ kỹ. Nhưng nó không hẳn hoàn toàn mới. Trước tôi đã có biết bao nhiêu nhà văn tốn hao giấy mực để chỉ nói lên chuyện đó.

            Trong nhiều tháng qua, có một vấn đề được đông đảo bạn đọc theo dõi trên tờ báo của chúng tôi và có rất nhiều lời bàn cãi. Tôi không dám quả quyết rằng những điều mà tôi viết ra có giải quyết phần nào nan đề nhỏ nhưng lớn lao kia không. Nhưng cho đến giờ phút này tôi vẫn không thay đổi sự suy nghĩ đó, dù những suy nghĩ mà quý vị gởi đến chúng tôi không phải là sai và không có cơ sở. Vấn đề mà tôi muốn nói ở đây là mối tình tay ba trong đời sống vợ chồng. Và chúng ta có chấp nhận ngoại tình hay không?

            Nàng dừng lời vì có rất nhiều tiếng huýt sáo, la ó từ những hàng ghế bên dưới. Song Tường chờ cho làn sóng âm thanh từ các cuống họng đàn ông kia chìm xuống, nàng tiếp lời.

            Thưa quý vị. Nếu quý vị cho phép tôi nói và những vị phu nhân khả kính bên dưới không cảm thấy bị xúc phạm vì những điều sắp nói của tôi, thì tôi xin được nói rằng mối tình tay ba có khả năng kềm chế được đổ vỡ hạnh phúc trong chừng mực nào đó. Và một trong hai người chồng –hay- người vợ ngoại tình, chĩ là một cách thức chuẩn bị làm mới lại cái không khí buồn rầu của cuộc sống lứa đôi. Hoặc quý vị sẽ chọn lưa sự kéo dài tình trạng địa ngục trong gia đình hay quý vị tạm thời ẩn thân trong một chiếc kén êm đềm khác. Giống như một cơn mưa bóng mây. Sự phiêu lưu tình cảm với một người thứ ba nào đó một lúc nào đó sẽ dừng lại. Và quý vị sẽ thấy rằng cuộc hôn nhân mà quý vị đang cảm thấy nhàm chán sẽ mang một hơi ấm khác. Một hương vị khác. Nếu...(nàng cười)... Nếu quý vị làm chủ được cảm xúc và lý trí của mình.

            Trước khi tôi trở về chỗ cũa mình và hi vọng quý vị sẽ không lôi tôi trở lại lên đây, tôi xin nói lời cuối cùng. Là điều quan trọng là, chúng ta có làm chủ được bản thân chúng ta trong cuộc phiêu lưu mới mẻ đó không? Với mức độ nào? Xin kính chào quý vị...”.

            Nàng rời micro, len lỏi qua những hàng ghế có những con mắt chau quảu từ những người đàn ông và căm thù từ những người đàn bà. Nàng đang hiện thân thành một thứ Satan dịu dàng hay một Nữ Thánh chuẫn bị tử vì đạo? Có thể là cả hai.

Tôi đứng lên tìm lối vào phòng vệ sinh. Ở đó tôi sẽ soi mình vào gương nhìn lại dung nhan mình. Ở đó, tôi gục đầu vào bồn rửa mặt thải ra những thức ăn đang cồn cào trong bao tử và tự hỏi mình có thể yêu được nàng hay không? Những điều nàng nói ra là thực tâm, hay chỉ là lời làm dáng. Những điều nàng nói ra, giống như một màu son nàng đang dùng che đậy đôi môi thường xuyên run rẩy của nàng? Hay là những lời được lên men pha chế bằng những u uẩn nằm sâu trong một trái tim đau?

            Tôi mở vòi nước nóng và vọc nước trong hai lòng bàn tay rửa khuôn mặt xanh xao. Có một chút quầng xanh vì mất ngủ nơi hốc mắt. Tôi nhìn trâng vào khuôn mặt nhòe nhoẹt vì hơi nước che mờ trên gương và ước mơ phải chi mình cứ trẻ mãi không già. Giống như một người đang xin cơ trong cơn đồng thiếp, tôi vẽ hai chữ S.T bên cạnh những dòng nước ràn rụa. Ðâu có gì tồn tại dài lâu giữa tinh cầu đang thoi thóp này? Ngay cả núi non và sông dài biển rộng. Huống chi con người thì mềm yếu như cây sậy. Huống chi tình yêu thì dễ tan vỡ? Những chữ mà tôi viết ra tồn tại được bao lâu?



Cuối tháng mười một tôi có giang xe buýt về thăm Hoàng.

Ðây là nơi chốn thường xuyên tôi tới lui khi về Houston. Hắn là người bạn thân từ khi còn ở Việt Nam. Nghe người ta nói lại người vợ đầu tiên của Hoàng đã bỏ hắn từ khi hắn còn trong trại “cải tạo”. Ra tù, nghe tin người yêu “ôm cầm sang tàu khác”- vì tình địch đang là thủy thủ tàu viễn dương- hắn không nói một lời và tìm mướn một chiếc xích lô đạp kiếm ăn qua ngày. Không ta thán và không nhìn lại thời quá khứ. Cuộc đời giống như một canh bạc, như ngày xưa hắn nói. Chấp nhận làm kẻ thua cháy túi, hắn đứng lên rời khỏi cuộc chơi với tâm hồn thanh thản. “Một ngày nào tao sẽ gầy độ lại”. Hắn nói khi tiễn tôi ở phi trường Tân Sơn Nhất. Hắn ở lại tiếp tục đạp mòn thêm chừng chục cặp vỏ xe chờ ngày lên đường theo diện H.O 28. Lúc tôi gặp Hoàng ở khu Hòa Bình, ba năm sau, hắn báo tin đã “gầy độ” lại với một người đàn bà khác. Cuộc hôn nhân thiếu những nhịp đập rền rĩ của trái tim nhưng đầy những thuyết phục của lý trí. Ðó là cuộc hôn nhân mà cả hai bên cùng có lợi. “Tao nói ít, nhưng mầy cũng hiểu nhiều”. Vừa lái xe hắn vừa nói. “Tao đã phone về nhà nói vợ tao làm đồ nhậu. Mầy sẽ biết mặt vợ tao, người đàn bà không đẹp, nhưng ít ra là không tầm thường”.

Một thời gian tôi không về khu Housing. Lại nghe tin Hoàng sống trở lại đời độc thân. Người đàn bà đi ngang qua đời hắn và lỡ ghé lại, một hôm nào cảm thấy hối hận. Nàng bỏ đi mất. “Ðàn bà ai cũng tầm thường hết trơn”. Hắn phàn nàn. Không biết hắn còn đủ sức gầy độ lại trong một xã hội mà người đàn ông bị xếp đứng hàng thứ năm, sau con chó con mèo. Nhưng tôi biết chắc sẽ không còn ai làm đồ nhậu mỗi khi tôi ghé lại.



Chín giờ rưỡi tối nhằm mùa Thanksgiving, Nhiệt độ xuống thấp đột ngột. Lúc xuống trạm xe buýt tôi gọi phone cho Song Tường. Hình như sinh nhật nàng hôm nay hay ngày mai. Hay có thể đã qua rồi. Ðịnh sẽ chúc nàng một mùa sinh nhật vui tươi đầy những hạnh phúc. Không có ai trả lời. Tiếng chuông đổ từng hồi bên kia ống liên hợp và hơi thở của tôi như bốc khói. Nếu có nàng ở nhà, chắc nàng cảm nhận được những ngại ngần của tôi trong lúc đó. Nhưng chỉ có giọng nàng trên message. Tôi nói lý do tôi gọi cho nàng và chúc nàng một lời chúc. Sau đó gác máy chờ Hoàng tới đón.

Căn phòng hẹp sáu thước vuông vừa là phòng khách, vừa là phòng ăn. Ðôi khi dùng làm phòng ngủ cho mấy tay lỡ say sỉn cù cưa không chịu trở về mái ấm gia đình.

Một sopha có từ khi Hoàng dọn về đây chưa một lần clean up, trên đó giấy má, sách báo bừa bãi. Một máy vô tuyến truyền hình 15 inch nằm một chỗ khiêm tốn mà đáng lẽ vị trí của nó phải đâu đó trong các thùng rác công cộng ngoài chung cư. Tất cả tượng trưng cho một cơ ngơi- của một gã đàn ông năm mươi tuổi đang hoang mang giữa chợ đời.

Hoàng loay hoay nhóm bếp hâm lại nồi cà ri, tiện tay nướng vài con khô mực, gọi là để “cải thiện” bữa nhậu, trong khi tôi bày ly chén. Vài cọng khói bắt đầu bay tản mạn trong không khí đặc sánh vì lạnh. Mùi khô mực nướng gợi nhớ một góc đường bụi bặm Vũng Tàu, nơi những người dân lao động buổi chiều ngồi lai rai trước khi về nhà. Gợi nhớ một màu xanh của trời tiếp liền màu xanh của núi. Và tiếng sóng vỗ âm thầm bên những khoang thuyền đầy tôm cá. Ðó là ngày xưa. Tôi nghĩ. Những ly rượu trong veo có khả năng làm máu nóng chạy rần rật hai bên thái dương và làm bao tử lủng dể dàng như chơi. Ðôi lần những gã đàn ông nhìn thấy đôi mắt tròn đen của cô chủ quán mắc cạn dưới đáy ly, tiếc cho chí lớn sanh lầm thời vong quốc.

Bây giờ những ly rượu nơi xứ người mang một mùi vị khác. Hoàng cầm ly bia trong tay. Không có đôi mắt của ai hiện về trong đáy cốc để hắn đem tấm lòng phơi trên những cọc buồn. Tôi cũng vậy. Thanh xuân không còn để tôi nhâm nhi mãi chất men đời với trái tim yêu người độ lượng. Thời gian luôn đứng về phía những người may mắn, trong khi tôi từ bao giờ vẫn là kẻ nhiều rủi ro. Giữa Hoàng và tôi ai là người hạnh phúc hơn ai? Tôi đi bên cạnh hạnh phúc hay đang bên ngoài hạnh phúc? Và cái tổ ấm tôi đang cư ngụ hay chiếc lồng chật chội đã từng giam nhốt một cánh chim ham thích phiêu bồng?



Tôi biết đêm mang hơi thở lạnh căm bên ngoài. Mới tuần rồi nắng ấm còn chói chang trên những bảng chỉ tên đường. Và trên những cây sồi già mùa đông vẫn chưa từng có mặt. Sắp qua một ngày mới. Ðồng hồ trên tay tôi chỉ mười một giờ. Có quá nhiều trống vắng trong căn phòng nhưng chúng tôi không cảm thấy hiu quạnh. Sự vắng mặt một người đàn bà đôi lúc lại thích hợp- nhất là trong bàn tiệc?

Ðến nữa đêm, nhà hết bia, trong khi “mồi màng” mới vơi phân nửa. Hoàng vẫn chưa thấy hài lòng:

- Tao muốn mình lai rai tới sáng. Tao chưa “đủ đô”. Rất ít khi chúng ta có dịp hàn huyên.

- Tao cũng vậy. Nhưng giờ này đi mua thêm bia e hơi khó.

- Ðừng lo. Tao kiếm được.

Hoàng đứng dậy gọi phone cho một người nào đó.

- Xong. Khoảng mười lăm phút nữa mình có thêm bia.

Thấy tôi ngạc nhiên, hắn giải thích:

- Có nhiều vấn đề coi tầm thường nhưng rất quan trọng. Chẳng hạn như lúc nầy.

Nhiều khi trong độ nhậu đang uống giữa chừng, hết bia hoặc mồi màng, làm sao kiếm thêm trong khi mọi quán xá đều đóng cửa? Ở chung cư nầy có một người đàn bà giải quyết được nan đề đó và là “cứu tinh” cho các dân nhậu. Ðó là chị Năm Cô Ðơn. Tao không biết lý do nào chị có cái tên mới nghe đã rền rỉ trong tâm hồn của mọi người đàn ông như vậy. Nhưng nếu ai cần bia bọt gọi tới, chị đều sẵn lòng, miễn là không quá một giờ sáng. Vì sau một giờ chị đã lên giường. Giá cả dỉ nhiên có đắt hơn chút đỉnh so với giá ngoài cây xăng. Nhưng đâu có ai so đo gì chuyện nhỏ nhặt đó. Và hơn nửa, chị Năm là một người đàn bà vui vẻ. Nếu cần, chị cũng có thể tham dự cùng với chủ nhà để uống chút đỉnh, nếu chủ nhà có nhã ý mời.

Ðúng như Hoàng nói, chị Năm là một người đàn bà vui vẻ. Quá vui vẻ là khác. Chị đem đến hai thùng bia. Chị cũng không từ chối ngồi lại sau lời mời đầu tiên của Hoàng. Ðôi lúc chị vào bếp làm thêm món gì đó. Ðiệu bộ thành thạo giống như một người đã từng tới đây vài lần. Ngay cả việc nâng ly rượu mời Hoàng và tôi, đôi mắt chị ướt rượt. Tôi không biết giữa Hoàng và chị, ai đã “chịu đèn” ai đây. Tôi không biết chuyện hắn kêu chị Năm Cô Ðơn đem bia tới vì không thể tìm ở đâu khác, hay chỉ là một cái cớ để có sự hiện diện của chị trong bữa nhậu về sáng.

            Trong khi tôi còn đang thầm đánh giá người đàn bà ngồi trước mặt, Hoàng lấy cây đàn ra từ gầm sô pha, giọng khẻ khàng, như một nghệ sĩ trước giây phút trình diễn:

- Lâu quá mình không đụng tới cây đàn. Thử coi ngón tay còn nhuyễn không.

            Dù còn điêu luyện hay không, tôi nghĩ cũng không cần thiết. Vì hắn đã có người đang nóng lòng chờ đợi những âm thanh bật ra từ những sợi dây đàn. Như một tiếng kêu rền rĩ gõ đúng lúc vào một trái tim trải qua mấy mùa thương đau. Như một tín hiệu vượt lên những giao thoa đời buồn để nhập vào tần số chính. Tôi nghĩ, tại sao những tâm hồn cô đơn lại không thể tìm về với nhau sưởi ấm một mùa đông lữ thứ. Dù có hơi muộn màng?





Tôi thấy đêm như mới bắt đầu hay đêm vừa dừng lại. Giữa những hớp bia càng uống càng thấy sự buồn rầu trong mắt nhau, tôi thoáng nghe có tiếng mưa bay nhẹ bên ngoài. Trong khi tiếng hát của Hoàng nhừa nhựa, mới nghe giống như Tuấn Vũ. “Người vừa tặng ta vết thương đau đã lành. Chẳng nợ gì nhau hãy để tình yêu bay cao. Vừa vào cuộc vui ta đã nghe lừa dối. Che dấu trên nụ môi, những lời yêu quá tả tơi...”

Có tiếng bấm chuông bên ngoài. Hoàng bỏ đàn đứng lên, nhìn qua lỗ tròn gắn trên cửa. Sau một lúc, hắn mở cửa. Song Tường hiện ra, run rẩy. Nàng đứng ngay thềm cửa, đưa mắt nhìn qua gian phòng, tia nhìn dừng lại nơi người đàn bà nửa ngồi nửa dựa vào sô pha. Chiếc áo lạnh của nàng nặng trĩu rét mướt bên ngoài. Hoàng né qua một bên. Nhưng nàng không bước vào:

- Tường nhận tin của anh. Biết thế nào anh cũng ghé nhà anh Hoàng. Nhưng Tường không có số điện thoại của anh ấy. Tường đến chỉ để cám ơn anh chúc mừng sinh nhật Tường. Có lẽ quấy rầy cuộc vui của hai anh không đúng lúc. Bây giờ Tường về.

Nàng quay lưng bước ra, khép cửa. Chưa bao giờ tôi có phản ứng chậm chạp như vậy. Ðầu óc lại sật sừ hơi rượu. Chỉ có một việc đứng lên, tìm cái áo lạnh trồng vào người mà cũng mất mấy phút.

Khi ra đến ngoài, thì Song Tường đã lên xe. Tôi nắm tay vịn cánh cửa xe, may mắn nàng chưa kịp khóa.

- Hãy để Tường yên. Nàng nói.

- Tường hãy nghe tôi nói. Tôi cũng nói.

            Nhưng tôi không biết tại sao những điều tôi muốn nói với nàng thật khó khăn. Làm sao để những lời nói ra không làm thương tổn nàng, trong khi tôi vừa chợt thấy tình yêu tôi vừa dành cho nàng sao buồn rầu quá. Một chiếc cúc áo trên cổ nàng mở ra. Ngay cả việc đưa tay gài giúp nàng tôi cũng không thể làm được. Dưới chân tôi là những chiếc lá khô lâu ngày rũ rượi. Chúng nằm đó và chờ đợi những cơn gió đưa chúng về muôn hướng. Ánh sáng từ trụ đèn cao áp soi bóng hình tôi kỳ dị bên cạnh xe nàng, như một tên gù trong phim của Walt Disney. Ðâu đây mơ hồ tiếng vang nhẹ từ chiếc chuông gió treo trước mỗi căn phòng. Tiếng chuông lòng tôi cũng rộn rã một tình yêu cuối đời gai góc. Tự dưng tôi thấy tỉnh táo hẳn ra nhưng cùng một lúc sự mệt mỏi ùa đến. Có phải nàng đến chỉ để cám ơn tôi về một lời chúc? Hay để nhắc nhở tôi về một kinh nghiệm bầm vập vớt lên từ một cuộc tình theo kiểu mưa bóng mây?

Bàn tay nàng đang miết chặt trên tay lái và máy đang nổ. Khuôn mặt nhìn trâng vào bóng tối hình như đang đẫm ướt nơi khóe mắt những dòng lệ. Tôi muốn nói nàng ngồi qua phía bên kia để tôi ngồi vào tay lái, nhưng tôi kềm giữ được. Chỉ một cử động nhỏ của tôi hay của nàng sẽ làm tan vỡ một hạnh phúc. Hay làm tràn chén đắng bằng những giọt cường toan?

Không phải tôi cũng có một gia đình và một mái ấm cách nơi tôi đang đứng ba tiếng đồng hồ đường xe? Không phải trước khi tôi về đây con gái tôi đã nhắc với tôi rằng hãy mua về cho nó một món quà, dù bất cứ món gì? Vậy thì hạnh phúc nào tôi muốn vươn tay ra để hái trong khi giông bão chờ dịp làm tan hoang một ngã ba đường?



Bây giờ chúng tôi xa nhau. Tôi không còn cơ hội để nói với nàng một lời êm đềm và bàn tay mở toang cánh cửa xe như mở cánh cửa lòng hai đứa. Không phải ai cũng kiểm soát được cảm xúc của mình như nàng từng nói. Không phải ai cũng biết dừng lại đúng lúc khi những bước chân non chạy kiếm một cõi địa đàng. Có những ranh giới và những rào chắn không thể vượt qua. Dù phía bên kia phơi phới những nụ hôn hay thầm lặng những môi cười. Ðó là cuộc đời. Người ta không thể đồng thời vừa cầm trong tay sự đau khổ, vừa vói đụng một hạnh phúc.

Bây giờ tôi xa nàng nhiều năm. Thời gian này không biết nàng có còn đẹp như tình cờ tôi nhìn thấy ngày xưa khi nụ cười tươi tắn của nàng làm cho buổi chiều lạc đường trở nên quyến rũ. Tôi không còn đọc thấy những bài viết của nàng và tòa soạn nói nàng đi về một thành phố khác. Không biết ai đã cùng nàng nắm tay để cùng băng qua những chông chênh con đường trước mặt trong khi mọi dấu vết về tôi đã nhạt nhòa đàng sau một Stop signe? Còn tôi, mới chiều hôm qua tôi vừa ăn sinh nhật một mình trong quán cà phê đường South Lamar. Quán có tên La Madeleine, một người đàn bà nổi tiếng trong Kinh Thánh. Vợ tôi đi về Việt Nam và ở luôn bên đó. Các trường học đóng cửa hai tuần. Con gái tôi nghỉ đông tại nhà một người bà con bên vợ tôi ở Montreal, Canada.

Trong tình yêu có những điều vô nghĩa tầm thường nhưng đến một lúc nào đó sẽ làm chúng ta vô cùng đau khổ. Giống như vết nứt trong lòng một con đê, tự ái đã làm cho cuộc tình tôi và Song Tường mỗi ngày thêm tệ hại, không thể hàn gắn. Nàng cũng như tôi, hình như không ai muốn mình trở thành người bày tỏ thiện chí đầu tiên. Cho đến khi mọi việc hoàn toàn bế tắc.

Nơi trạm xe buýt, mùa đông rất lạnh trên mấy băng ghế thưa người. Cây thông vĩ đại mang những ngọn đèn đủ màu trước điện Capitol khi xe buýt chạy qua nhắc tôi mùa Giáng Sinh đang có mặt. Sương mù lướt thướt giữa hai lối đi dành cho người đi bộ. Sương mù cũng che lấp những đời xe nằm co ro trên parking bên kia đường số 6. Chiều chết trên những ô kính xám xịt từ các tòa buynh đinh cao chất ngất. Chúng làm cho chúng ta có cảm tưởng bầu trời thấp hơn.

Tôi nhớ trong khi tôi chờ đem món ăn, có một con chim đen đậu xuống trên thanh sắt của hàng rào. Nó nghiêng đầu dáo dác, cuối cùng ném về phía tôi cái nhìn cảm thông. Ly cà phê còn đầy và tôi ngại ngần chưa muốn uống vội vì cảnh vật bên ngoài mang một vẻ đẹp êm đềm quá. Người phục vụ pha thêm một chút rượu Rhum vào ly. Một chút bọt màu nâu rơi xuống trên mặt bàn có phủ khăn màu trắng. Sao giống như một nỗi buồn?

Phải mất bao nhiêu năm tháng tôi mới biết rằng sự đau khổ tuy có bào mòn tâm hồn con người nhưng làm cho chúng ta biết bao dung hơn với cuộc đời. Sự đau khổ trong tình yêu có làm mất mát -(vì ai đó đã nói tình yêu là cho đi chớ không phải lấy lại)- nhưng không vì thế làm cho trái tim khánh tận. Khi tôi đã gần năm mươi tuổi, tôi vẫn còn thấy rằng trái tim, không bao giờ già nua. Và nhịp đập của nó không bao giờ lỗi thời. Vì trong những ngăn tâm thất nhỏ bé kia, luôn còn đủ chỗ để chứa đựng bao niềm vui hay mọi nỗi buồn. Và nụ cười của ai đó dù đã khép lại trên những mong manh ngắn hạn của một góc đời, tại sao tôi không thể coi đó là một niềm khích lệ nồng nàn, đẩy tôi lăn về phía trước?











Sunday, November 27, 2011

hoa bluebonnet cho hai người

VĂN CHƯƠNG




Khi Chú Năm đang còn ở Bangkok mẹ tôi đã chuẩn bị sẳn sàng mọi việc cho chú. Bà sửa soạn suốt ngày nơi ăn chốn nghỉ cho một người đàn ông độc thân sẽ đến từ Việt Nam.

Căn phòng nhìn xuống khoảng sân cỏ và bãi đậu xe rộng, có cây thù du che khuất thùng rác công cộng của chung cư. Buổi sáng có bầy chim đen về đậu trên bờ thềm ẩm ướt sương lạnh. Những con chim mỏ vàng hung dữ, dạn dĩ chao đảo khắp mọi góc sân, coi như nơi chốn riêng biệt của chúng, bất chấp sự hiện diện của con người.

Ngày mới đổi về đây, tôi ngạc nhiên lẫn sợ hãi khi nhìn thấy loài chim như vậy đậu trên cành và kêu những tiếng lạ tai. Lúc đó là mùa thu năm ngoái. Thân cây sần sùi và những ngọn không còn lá, như không còn sự sống, in dấu giữa nền trời khô xám như thể nét phác thảo bằng phấn màu. Nhưng bây giờ đang là mùa đông.

Trời trở lạnh đột ngột gần một tuần nay. Hôm về Waco chơi, chúng tôi nghe nói vài nơi đã có tuyết bay buổi sáng. Sáng đi làm không muốn rời khỏi giường, còn nấn ná trong chăn ấm tàn đêm trong khi bên ngoài sương đang chảy từng dòng trên cửa kính. Chúng tôi đã sống qua một mùa thu tuyệt diệu vì phong cảnh thật đẹp. Trong lá thư gởi về Việt Nam tháng mười, tôi có viết cho người bạn trai về những cây phong đỏ rực bên đường, như một cánh rừng lửa mà ngày còn ở quê nhà tôi chỉ thấy qua mấy tấm Carte Postale. Màu đỏ và vàng trộn lẫn ủ ê nhưng không phải vì vậy mà không đẹp. Khung trời chập chờn thấp thoáng một đời giang hồ giữa sương mù và mưa bụi, và khu rừng nguệch ngoạc những cành nhánh mộng du, mỗi lần chạy xe ngang tôi vẫn nhìn đắm đuối.

Mẹ tôi năm nay bốn mươi ba tuổi. Ngày còn ở quê nhà bà vẫn thường ao ước được trông thấy một thành phố nào đó ở Âu Châu. Bà nói sống ở Việt Nam chật hẹp và tù túng. Và con người cũng ảnh hưởng địa lý đất đai nên không có sự rộng lượng. Tôi không biết suy nghĩ này có lệch lạc và chủ quan hay không, nhưng tôi không cãi lại, vì biết bà muốn ám chỉ đến ba tôi, cùng cuộc tình đổ vỡ của hai người.

Cha tôi là một công chức trong chế độ cũ. Ông dạy môn văn tại trường Trung Học Vũng Tàu. Mẹ tôi là dân Đà Lạt. Một năm nào đó cha tôi lên coi thi ở Đà Lạt và gặp bà. Một đời biển và một đời rừng kết hợp sau một cuộc tình tưởng chừng chơi mà thành thiệt. Đó là năm xãy ra biến cố Mậu Thân. Mẹ tôi về sống với cha tôi dù gia đình hai bên không ai vui lòng cho lắm. Bên nội cũng như bên ngoại kỳ thị địa phương. Cha tôi người Nam và mẹ tôi người Bắc. Dù sao thì tôi cũng vẫn có mặt và mẹ tôi đặt tên tôi là Mạc Lan. Mãi đến sau này, khi lớn lên tôi mới biết loài hoa mang tên mình như thế nào- lúc về sống gần gũi với gia đình bên ngoại- Loài hoa màu đỏ chìm khuất trong bóng tối và không cao hơn ngọn cỏ. Mùi thơm bay ra từ những cánh mỏng khi đêm xuống mang một dáng vẻ quê mùa mộc mạc.

-Mẹ muốn con bình dị, mộc mạc như vậy. Cuộc đời có quá nhiều điều mệt mõi, chóng mặt.

Bà thường nói với tôi khi gặp những thất bại cay đắng trong đời sống. Được ngoại tôi giúp vốn, sau khi chia tay với cha tôi bà trở về thành phố núi, mở một gian hàng chạp phô trong khu Hòa Bình. Tôi có rất ít kỷ niệm về cha tôi vì lúc xa ông, tôi còn nhỏ.  Người ta nói tôi giống bên ngoại nhiều hơn. Điều này tôi chấp nhận, nhưng đối với tên Mạc Lan thì hình như tôi không dính dấp gì đến nó. Tôi xông xáo năng động ngay từ những ngày ở Tiểu Học, và lên Trung Học, trường Bùi Thị Xuân đã đôi lần xét nét về sự năng động đó. Tính nết tôi cũng trái ngược với mẹ tôi. Bà thích sự gọn ghẽ ngăn nắp, ít nói và ít có mặt ở đám đông, trong khi tôi ham vui, bừa bãi lượm thượm.

Có lẽ định mệnh đã không thích gì mẹ tôi, cho nên khi Cộng sản vào chiếm miền Nam, họ đã đem theo những ràng buộc, bất trắc. Điều này làm mẹ tôi buồn rầu gần muốn trở thành bà cụ non. Cuộc đời vẫn chật hẹp gò bó- theo ý bà- Cộng sản lại làm cho nó trở nên chật hẹp, gò bó hơn. Hai lần đổi tiền, hai lần mẹ tôi chao đảo. Cho nên khi nghe đồn sắp đổi tiền lần thứ ba là mẹ tôi dắt díu tôi về Vũng Tàu kiếm đường vượt biên. Không may chuyến đi không thành công. Cả hai mẹ con bị bắt và bị giam ở ngả ba Cầu Cháy, gần rừng Chí Linh. Tại đây, những ngày gian khổ, chúng tôi gặp chú Năm.

Cha tôi có hai người bạn thân cùng suýt soát tuổi nhau. Chú Tuân dạy toán đệ nhị cấp, có gia đình và sống một đời sống gương mẫu hơn cả cha tôi. Người ta ít thấy chú đi một nơi nào khác ngoại trừ từ nhà đến lớp. Mẹ tôi nói vì dạy toán nên chú bị đóng khung vào công thức và, cuộc đời theo chú đã có những đáp số có sẳn. Chú khó khăn với học trò và sòng phẳng với đồng nghiệp. Đừng ai chờ đợi ở chú một gia nhập hay chống đối với những điều dụ hoặc nào mà xã hội tình cờ đưa đẩy. Chú không bận tâm đến những nhập nhằng vô lý do cuộc chiến đem tới. Tất cả những điều đó giống như các giả thuyết trong một bài toán mà bài toán nào không có đáp số? Một lần duy nhất chú đã giải sai đáp số bài toán cuộc đời chú (một lần thôi cũng đủ làm chú ân hận). Chú không định liệu được miền Nam sẽ mất vào tay Cộng sản. Cho đến những ngày cuối tháng tư bảy mươi lăm có vài người rủ rê chú vào phi trường. Họ có máy bay muốn chú theo họ cùng bay ra ngoài hạm đội, chú cười từ chối:

            -Năm Mậu Thân chúng vào tận trong Sài Gòn mà còn chưa làm gì được, huống hồ… Việt Cộng chưa thắng nổi chúng ta, ít ra là trong lúc này…

            Khi tôi theo mẹ tôi về Đà lạt, tôi nghe tin chú đã trở thành một thầy giáo “mất dạy” nói theo danh từ lúc đó, cho tất cả các vị thầy khả kính khác- là không còn lớp và học trò để dạy. Nhưng ngược lại chú được người ta tận tình dạy dỗ dài hạn trong một trại tù nào đó, giống như cha tôi.

            Chú Năm nhỏ hơn cha tôi hai tuổi. Là một người đàn ông khác biệt hẳn với cha tôi và chú Tuân. Chú giang hồ từ những ngày thơ ấu và không học nhiều ở trường lớp như hai người bạn. Chú tham dự vào cuộc đời với nhiều hoan lạc không kể xiết, và yêu mến chính cuộc đời mà chú đang sống. Chú là một con người biết tận hưởng tất cả các lạc thú và khổ đau trong cùng một thời gian mà không hề phàn nàn hay so bì. Vì chưng chú là một nghệ sĩ, cho nên ngày nào còn sống, mọi điều dàn trải ra trước mắt cũng đều làm chú thích thú.

            Có lẽ chúng tôi thích chú nhiều hơn chú Tuân, chính vì sự độc lập và những nét riêng tư, gần gũi đó. Chú đi rất nhiều (chính vì vậy mà đến bây giờ chú vẫn chưa có gia đình để trụ lại chăng?). Chú bươn bả chạy về phía trước, kéo theo cuộc đời ồn ào phức tạp phía sau lưng mình. Tôi nghe chú kể về vùng 1, vùng 2 là những nơi chú dừng lại lâu nhứt. Đa số là cao nguyên Trung phần. Chú không thích biển- mặc dù chú sinh ra và lớn lên bên cạnh biển- Chú nói gió biển mang hơi hám rít ráp của biển mặn, trong khi nắng quá nhiều làm con người dễ mệt mõi. Đứng trước biển, đầu óc con người bị hạn chế vì có quá nhiều màu xanh.

Chú nói rất nhiều. Những ngày đó tôi không nhớ hết và hiểu hết mọi điều chú nói. Chú đến thăm gia đình tôi vài tuần rồi đi mất biệt. Lâu lâu trở lại, chú đưa cho tôi xem một bài báo hay một bài thơ do chú viết và nói:

-Đọc đi. Anh không tưởng tượng được là tôi đã đau khổ như thế nào trong lúc viết bài này đâu nhé.

Hoặc nói với mẹ tôi:

-Tôi về đây có quấy rầy sự yên tỉnh của chị không? Tại nhớ món chả giò của chị quá đi thôi. Chị có món nào tuyệt chiêu hơn nửa hay không?

-Có chứ. Mẹ tôi trả lời. Chỉ e chú không chịu nấn ná ở đây lâu.

-Được thôi. Anh chị có lòng thì Năm này cũng có bụng…

Chú Năm là như vậy. Chú là nguồn vui nhỏ của gia đình và thỉnh thoảng làm chất keo gắn lại những vết nứt tình yêu của cha mẹ tôi. Một lần tôi gặp chú Năm trong dịp chú về Đà Lạt. Lúc đó cha mẹ tôi đã thật sự xa nhau. Một người đàn bà khác đã thay thế chỗ mẹ tôi một năm sau giải phóng. Có lẽ mẹ tôi có buồn trong hoàn cảnh đó, nhưng trong thâm tâm bà cũng thấy dễ chịu vì được sống riêng, dù lúc đó bà chỉ mới ngoài ba mươi.

Cuộc chia tay của hai người không mang màu sắc dữ dội của một thảm kịch. Chỉ có cơn mưa mùa hạ bay lướt qua trên mái tôn cũ buồn- Căn nhà chập choạng ánh đèn dầu vì nhà đèn cúp điện. Tôi khóc lặng lẽ ở cuối phòng. Điệu nhạc buồn vẳng lại từ chiếc cassette nhà ai  (bản nhạc vàng lén lút “Lạnh Trọn Đêm Mưa” mà nhiều năm sau tôi vẫn còn nhớ). Bản nhạc trùng hợp dù lời ca không sang trọng, nhưng chân thật đi vào tâm hồn mỗi chúng tôi. Trong bóng tối ủ ê, lời ca trở lại điệp khúc đầu. Cơn mưa giữa chừng bỗng tạnh.

Tôi không nhớ rõ mặt người đàn bà đã làm gia đình tôi đổ vỡ. Chỉ nhớ mang máng một khuôn mặt bầu bĩnh tầm thường cùng mái tóc uốn dợn sóng trước trán. Tôi không thể biết điều gì đã làm cha tôi đắm đuối người đàn bà đó. Vì so với mẹ tôi. Ngoài sự trẻ trung và diêm dúa, bà ta không hơn mẹ tôi.

Vài tháng sau cha tôi đi học tập cùng với chú Tuân, trong khi chú Năm thì vẫn nhởn nhơ bên ngoài cuộc đời như cánh chim bay đảo qua ngày tháng rộng phiêu bồng, cho dù không khí đang nhuốm những bụi bậm và đường phố vang dội những âm thanh cuồng nộ hơn xưa. Giống như những dâu bể đổi đời không phải đang xảy ra mà chỉ như một vở kịch, và chú đứng xem với một tấm lòng ngưỡng mộ. Chú là người đầu tiên nói về cha tôi, dù mẹ tôi không nhắc đến:

-“Người ta” có đi thăm nuôi. Nhưng thỉnh thoảng đôi lần. Chủ yếu là gia đình anh ấy. Chắc chị cũng biết anh có chân trong đảng Dân Chủ, nên ít hi vọng ra sớm. Rồi chú đột ngột: “Chị có đi thăm nuôi không? Tháng sau trại có đợt thăm nuôi, chị muốn đi tôi đưa đi?”

-Để làm gì? Tôi không nhớ đến chuyện đó. Vả lại, tôi còn lo cho Mạc Lan.

Bình thường, ít khi thấy mẹ tôi bày tỏ sự quyết tâm trong bất cứ việc gì. Nhưng lúc này bà từ chối quyết liệt sự đề nghị thăm nuôi của chú Năm. Có lẽ do sự oán hận đã làm bà mất đi sự bao dung chăng? Tôi không dám xen vào ý nghĩ của bà, chỉ lặng thinh nhìn chú Năm đang vừa nói, vừa cười:

-Chị thù dai quá, chị Ngọc. Chỉ có Cộng sản mới thù dai, chớ người Quốc gia thì không thể…

Mẹ tôi cãi:

-Ai bảo người Quốc gia không biết thù dai? Tại sao chú không lập gia đình đi, để chứng tỏ chú không thù ai?

Mẹ tôi muốn ám chỉ mối tình đầu của chú, một lần do chính chú kể lại. Mối tình cay đắng và tan hoang mọi ước vọng trai trẻ. Giữa cõi đời hư hoặc hôm qua, chú vẫn nhìn ngoái lại hạnh phúc bay vuột ngoài tầm tay mình trong khi trái tim thừa mứa một thứ tuyệt vọng cùng quẫn. Chú không chịu lấy vợ cũng vì lẽ đó.

-Thôi đi chị. Tôi sắp sửa có vợ rồi đây. Chị đừng mỉa mai cay đắng.

-Ai vậy? Tôi nhanh nhẩu hỏi, lòng háo hức.

-Bí mật. Chú nheo một con mắt nhìn về phía tôi. Tình yêu không phô trương mới là tình yêu lớn nghe cháu.

Mẹ tôi cũng không kềm được:

-Ai vậy? Cô nào ba đầu sáu tay mới dám yêu chú.

-Không cần những thứ đó đâu chị ơi. Nàng chỉ có một trái tim non nớt thường xuyên đập những nhịp đập run rẩy…

-Nhưng đủ để nhốt một tâm hồn già cỗi như chú?





Chúng tôi ra khỏi phòng đợi phi trường Austin lúc 9 giờ 30 tối. Đêm tháng ba trời rét nhưng thiếu cái ẩm ướt của mùa đông. Sự rực rỡ của phi trường đã làm chú Năm choáng váng trong giây lát. Chú đứng lặng yên trước cửa ra vào, hai tay thọc sâu vào túi áo Veston, như không thể tin vào thực tế trước mắt. Sài Gòn ở xa chú quá và những ngày Việt Nam mới vừa trôi qua. Mộng và thực trộn lẫn kỳ ảo? Chú nhìn mọi thứ một cách mê đắm, như cố thu tất cả vào trí nhớ của đêm đầu tiên nhập cư. Người nữ cảnh sát mang súng lục bên hông đang cúi xuống biên phạt một xe đâu sai chỗ trong parking dành cho người tàn tật. Mái tóc vàng bay ngược ra phía sau vì gió cùng màu da trắng tương phản với màu đen của cảnh phục. Mẹ tôi hối chú:

-Chúng ta ra xe đi. Ở mãi ngoài này, bị lạnh.

Bà len lỏi qua mấy vuông sân, mắt nhìm tìm chỗ đậu xe. Tôi theo sau chú Năm, xách hộ chú một túi xách nhỏ. Sau nhiều năm không gặp, tôi thấy chú ốm và có vẻ cao hơn. Bộ Veston sọc nhỏ may trước ngày rời Việt Nam làm chú mang một dáng dấp trang trọng. Nhưng không phải vì vậy mà chú kém thoải mái.

Đêm như riêng biệt của chúng tôi giữa những dòng chảy bất tận của đời sống. Những giao lộ như hẹp lại vì xe cộ dồn dập từ mọi phía, như thể những gì hiện hữu của đời sống này sẽ không còn tồn tại, nên người ta tìm cách len lỏi, vượt lên trên phía trước tìm kiếm cho mình một chỗ nghỉ khác, một phần đời khác.

Đến nơi, mẹ tôi mở cửa xe, mời chú Năm ngồi ở cạnh bà. Tôi ngồi phía sau. Hành lý để ở “cốp” xe. Tôi chồm tới trước chỉ chú cách thắt giây an toàn. Xe ra khỏi phi trường, sau khi dừng lại một chút ở cổng để trình ticket và đóng tiền lưu bãi. Chú quay lại tôi, với cái nheo mắt và nụ cười cố hữu:

-Chú có đem qua một món quà dành cho Mạc Lan. Suýt chút nữa bị giữ ở phi trường Tân Sơn Nhất. May nhờ có “bác” dẫn đường…



Tập thơ gần ngót một trăm trang đánh máy là món quà chú Năm dành cho tôi. Những lời thơ rải rác từ những năm sau ngày mất nước, dài có, ngắn có. “Những bài thơ trộn lẫn nỗi tức tưởi cơ cực của chú”. Chú nói trong lúc khuấy đều ly cà phê. Trước mặt chú là những món ăn mẹ tôi tự tay nấu nướng trước khi ra đón chú ở phi trường. Mẹ tôi hỏi:

-Những nỗi cơ cực nào đâu sao tôi không biết? Còn người đàn bà nào chú định giới thiệu với mẹ con tôi?

-À há. Tôi phụ họa. Mối tình lớn của chú

-Chú đã để quên đâu đó giữa bèo bọt cuộc đời rồi cháu ơi!

Chú nói tỉnh bơ và quay sang mẹ tôi:

-Sao chị dám tin chắc là tôi đã có đủ can đảm để đèo bồng thêm một gánh nặng quá tải trong khi thân phận tôi thì nhẹ tênh?

-Ai biết đâu đó? Chính miệng chú nói chớ ai?

-Chị thường dể tin như vậy sao? Khi gặp chị và Mạc Lan ở trong trại giam Vũng Tàu, tôi thấy chị nghi ngờ tất cả mọi thứ?

Chú đã khéo léo đưa câu chuyện sang một ngã khác. Và mẹ tôi bị lôi cuốn theo

-Chú nhắc tôi mới nhớ. Lúc chúng tôi ra, chú còn ở lại bao lâu trong đó?

-Gần ba tháng. Tụi nó nghi tôi tổ chức vượt biên có vỏ trang nhưng không tìm thấy bằng chứng. Vả lại, tôi cũng biết cách xoay xở.

-Thì chú luôn là một người khéo xoay xở…

Tôi tò mò ngắm những cành hồng trong bình sứ đặt giữa bàn. Bó hoa mua lúc dừng lại lâu ở một ngã tư đèn đỏ. Người Mỹ già tội nghiệp đứng bán bên lề đường, mắt chăm chú nhìn tờ bạc từ tay tôi. Tôi không chờ lấy lại tiền thối. Tôi không biết chú Năm có khéo xoay sở được như trước không? Giữa một xứ sở rộng lớn, phức tạp- mà ngay chính người Mỹ cũng vẫn thất nghiệp và sống bằng food stamp. Một xứ sở phì nhiêu đượm đầy sữa và mật, nhưng con người phải quần quật tám tiếng một ngày… chộn rộn với những nhiêu khê, rối rắm mà ngày tháng trôi qua vùn vụt như tên bay. Dù sao thì chú vẫn là đàn ông. Chú có thể bắt đầu không khó khăn lắm, miễn là chú đừng rong chơi như loài ngựa hoang, cho dù Austin này có quá nhiều đồng cỏ. Tôi nói:

-Không ngờ chú Năm từng tuổi này mà chưa có vợ.

Chú uống chầm chậm ly cà phê của mình một cách thích thú:

-Có gì lạ đâu, Mạc Lan. Sự cô đơn nào cũng có mùi vị của nó. Sống trong hạnh phúc của mình hay đi bên cạnh hạnh phúc của người khác đều có nỗi thích thú riêng.

-Mùi vị nào ở trong sự cô đơn của chú?

-Hình như đắng cay thì phải. Nhưng đó là đời sống. Chú thích như vậy. Nhưng tại sao chúng ta cứ nói mãi về những điều không đáng nói? Mạc Lan hãy nói về cháu cho chú nghe đi. Nhưng trước hết hãy nói về mẹ cháu cái đã.

Tôi nhìn mẹ tôi. Trong khi bà đang dùng dao cắt cho mình một miếng thịt nướng. Bà dừng lại giây phút nhìn tôi, mắt mở lớn. Trong bóng tối lem luốt bên ngoài cửa kính, những bóng xe cộ chạy vun vút bên kia cầu, như những vệt lửa bay vào cõi hư vô. Chúng tôi, hai người đàn bà cũng đang để tuổi xuân của mình trôi băng về phía trước, không một sức hút nào kéo lại. Gần mười năm, kể từ ngày rời Việt Nam, mẹ tôi vẫn sống như ngày nào không có cha tôi.

Tôi không biết bà chịu sự cô độc cho đến lúc nào một khi không có tôi bên cạnh. Đôi lúc tôi không làm vơi đi nỗi buồn trong bà mà còn làm đầy thêm những phiền muộn. Tôi vẫn còn trẻ để không thể đứng bên ngoài những cuộc vui, trong khi mẹ tôi ngại ngần tham dự, cho dù nhiệt tình vẫn còn. Những nét quyến rũ thời con gái của bà vẫn tồn tại, nhưng tiềm ẩn, không mãnh liệt như ngày xưa. Vài ba người đàn ông trong hãng giặt ủi đôi lần đến thăm chỗ chúng tôi. Những đôi mắt khao khát muốn bày tỏ cho ai đó nỗi niềm riêng biệt cùng những lời nói nửa chừng. Họ là những người đã có công ăn việc làm ổn định, nếu không nói là có chiều hướng đi lên trong một xã hội trung lưu. Một người đã có gia đình. Những người kia còn độc thân. Bà không biểu lộ hay hứa hẹn một quan tâm tương đối nào với họ. Thời gian càng kéo dài, và họ càng cảm thấy lúng túng trong vòng tơ nhện mù tăm không lối thoát. Tôi hỏi bà, sau khi chỉ còn lại hai mẹ con:

-Mẹ không chấm được ai trong số những ứng cử viên đó sao?

-Hình như là không. Mẹ tôi cười. Mỗi người đều có những ưu và khuyết điểm giống nhau. Nhưng khuyết điểm nhiều hơn.

-Chẳng hạn như?

-Không biết mẹ có nên nói ra hay không. Nhưng tất cả đều không hiểu mẹ yêu thích những gì. Và họ cũng rất ít lòng vị tha. Đó là căn bản trong đời sống chung.

-Hay mẹ vẫn còn nhớ đến cha?

-Không hề như vậy. Chủ yếu là mẹ chưa muốn xa con trong lúc này. Mẹ vẫn biết con không cần mẹ. Nhưng mẹ thì khác. Một ngày nào đó, hoặc mẹ, hoặc con sẽ đi về hai ngã, một nơi chốn nào đó, dù lòng không đợi.



Khi màu xanh tím của hoa Bluebonnet chạy dài trên những bãi cỏ dọc đường 35 cùng những nơi khác, mùa xuân đã gần hết trong thành phố. Cây anh đào đã nở đến những nụ cuối cùng của nó và màu hồng phơn phớt đã làm tăng thêm vẻ diễm lệ của thời tiết tháng tư. Từ trên tầng lầu cao nhất của một khách sạn, người ta có thể nhìn thấy đủ mọi ưu đãi mà Thượng Đế đã dành riêng cho nước Mỹ. Cho dù mới ngày nào mỗi người vừa đi vừa thở những hơi khói dưới sương mù làm tối tăm tầm mắt. Những nhịp cầu vòng vo chạy qua đường 183 vừa làm xong tháng trước, nay đã bề bộn một rừng hoa tím phía dưới. Vài cây xương rồng mọc đơn độc ở cuối một bãi đậu xe, như nhắc nhở thị dân ở đây đừng quên ngày xưa nơi này là hoang mạc. Dấu vết khai phá của người da trắng đầu tiên trên đất đai của người da đỏ chỉ còn lại những kỷ niệm làm ràng buộc những người già ngồi lại với nhau. Họ có lý do để kể cho bầy trẻ nhỏ nghe cái thời niên thiếu của họ như kể về một chuyện cổ tích. Như một cây sồi nào đó ở miền South, gần khu Capitol có tuổi thọ mấy trăm năm- và dưới bóng mát của nó, vị Tù trưởng của bộ lạc đã ký kết văn bản nhượng đất cho người Mỹ bằng chiếc bút làm bằng lông con đà điểu.

Tôi lái xe chạy vòng theo thung lũng, dưới ánh nắng chói chan. Che khuất một vùng trời là hai vách đá chằng chịt những vết nứt. Hơi nóng cũng từ đó bốc ra. Vài người đàn bà Mỹ cởi trần lái xe vượt qua mặt như muốn trốn bỏ sau lưng một mặt trời rát bỏng.

Buổi chiều gợi lại trong ký ức tôi những ngày tù tội ở trại tạm giam Vũng Tàu. Cơn sốt miền nhiệt đới cùng nắng gió trộn lẫn cát bụi. Con người của ngày tháng đó đang cố ngoi lên giữa những ham muốn tầm thường. Như một chút bóng mát hay một cơn gió biển thổi về bất chợt. Hay những vòi nước giống như “chế độ” lúc có lúc không, cùng những cảnh chụp giựt chen lấn để tìm cho mình một chút gì khả dĩ làm ẩm ướt gương mặt nhơm nhớp mồ hôi. Những va chạm cố tình vì chính sự chật hẹp của không gian, thời gian. Sự mất ngủ thường xuyên đã làm tôi bần thần suốt một tuần lễ sau cùng trước khi rời khỏi trại tạm giam.

Nhưng tại sao tôi lại nghĩ về bối cảnh đen tối u trầm đó, trong khi con đường trước mặt tôi mênh mang và khoáng đạt như không hề quanh co như chính cuộc đời tôi hôm nay? Tôi không muốn về nhà bây giờ và cứ để cho chiếc xe lao đi không chủ đích. Hình như tôi vừa vượt qua một Stop sign. Tôi liếc nhìn kính chiếu hậu, để ý tìm kiếm một bóng dáng xanh trắng của chiếc xe cảnh sát đuổi theo, nhưng không thấy.

Con đường đã nhập vào giao lộ phức tạp trong thành phố. Tôi lái chậm lại và cảm thấy đói bụng, rẻ vào quán Donkin’ Donuts gần đó. Những giỏ hoa treo tùy tiện trên trần buông rũ những giây lá mạnh mẽ xuống gần ngang mặt người ngồi.

Quán trống trải vì đang giờ tan sở. Tôi kêu một ly cam lạnh và một bánh ngọt có rắc đường ướt lên trên, tìm một góc ngồi nhìn mông lung ra ngoài khoảng sân quạnh hiu. Buổi chiều trôi qua chậm rãi cùng với màu vàng úa mệt mõi. Tôi không biết giờ này mẹ tôi đang làm gì ở nhà, với khung máy may và những sấp vải cắt sẳn. (Mẹ tôi nhận may thêm ngoài giờ từ một Shop may ở dưới miền South). Chú Năm đi làm ca đêm từ hơn tháng nay, trong một xưỡng in của người Mễ. Công việc khiến chú ít khi ở nhà buổi tối. Ban ngày chú xem sách, ngủ, làm những việc vặt vãnh trong nhà. Thỉnh thoảng chú dùng bàn máy đánh chữ của tôi để sửa lại tập thơ đánh vội vã từ Việt Nam. Đó là vùng đất im sững nước mắt và đầy âp tiếng cười của cõi đời riêng biệt. Nơi trái tim lãng mạn đậu xuống như một cánh chim mõi và đôi môi thì nứt khô rướm máu của con sói rừng hoang. Đôi lần, chú ôm đàn và hát một bài hát xa lạ, tôi không biết của chú hay của ai. Lời hát mang niềm đau hay nỗi buồn chập chờn, trôi trác giữa giòng đời? Trong đó có những câu làm tôi say mê: “Này em hoa quỳ, chiều thơm phấn nụ, người về bao lâu, tình như áo cũ? Người vừa qua đây, quán đời tăm tối…”

Tôi thấy mình có thể yêu say đắm mọi thứ dường như tầm thường toát ra từ con người chú. Không biết có phải tình yêu hay không, vì tôi chưa yêu ai, dù bây giờ tôi đã hơn hai mươi lăm tuổi. Tôi vẫn còn tỉnh táo và sáng suốt để đánh giá cùng nhận diện những rung động của mình. Người ta nói trái tim có những lý lẽ của nó, tôi không biết có trường hợp ngoại lệ hay không? Nhưng không biết phải nói thế nào về mối tình của một người con gái yêu một người đàn ông hơn mình hai mươi tuổi. Chỉ có thể nói rằng mỗi khi nghĩ đến nó tôi thấy mình chấp choáng trong một cảm xúc tuyệt diệu.

Buổi chiều xuống cùng khắp ngoài bãi đậu xe. Tôi đứng lên trở về. Căn phòng không có ai trống vắng. Đáng lẽ giờ này mẹ tôi có ở nhà. Phòng khách bày biện có vẻ tươm tất hơn và mang một hơi hám sinh động hơn. Bước vào phòng ngủ của mẹ tôi nhìn bó hoa của ai gởi tặng để nằm trên bàn phấn, tôi chợt nhớ hôm nay ngày sinh của bà (trong khi tôi quên thì vẫn có người khác nhớ).

Bó hoa được mua từ chợ Alberson với tờ giấy nhỏ kèm theo: “Chúc Mừng ngày vui của M. N. Chúc cho những yếu đuối và luôn những vững vàng”. M. N là chữ viết tắt tên của mẹ tôi. Cũng có nghĩa là Em của Anh. Không đề tên người gởi nhưng tôi biết là của chú Năm. Nét chữ hôm nào gần gũi mà nay đã nghìn trùng xa cách. Mẹ tôi chưa về, nên bó hoa vẫn còn nguyên bao kiếng chưa mở ra. Và có lẽ chú không nghĩ tôi thấy nó trước khi mẹ tôi nhìn thấy.

Tôi nhìn quanh quẩn căn phòng và tưởng tượng chú Năm vừa từ nơi này bước ra. Đã bao lần người đàn ông quen thuộc đã hiện diện nơi đây? Nhưng hôm nay tôi vừa biết không phải lần đầu tiên người ta đi qua đời mẹ tôi bằng những bước chân âm thầm. Con sói già ngày nào đứng giữa quạnh hiu và luôn rong chơi một mình đã thấm mệt rồi chăng? Còn trái tim nào cùng những đắng cay cùng quẫn như đêm đầu tiên đến đây. Con sói già đã chạy đuổi theo con sơn dương bằng những bước chân già cỗi, cùng đôi mắt mở trân nhìn cuộc đời phía trước? Trong khi tâm hồn tôi cũng đầy ấp những tức tưởi không nguôi.

Tôi đến bên cửa sổ, kéo mạnh dây màn. Gió mát của buổi chiều mênh mông ùa vào căn phòng đêm đơn chiếc- từ những ngày tới sẽ không còn đơn chiếc- Mùa hè đêm xuống muộn màng. Cây thù du vẫn còn hiện diện phía bên này, phía bên kia là thùng rác đen đủi xấu xí, đang tràn ngập những bao bịch người ta đem bỏ ban ngày. Ngọn đèn cao áp đứng ở góc sân tỏa ánh sáng dịu mát xuống mặt thềm xi măng. Bãi cỏ ngăn ngắt một màu xanh đằm thắm mà từ đó những đám hoa Bluebonnet mọc lên. Màu tím xanh đắm đuối như những giọt lệ đá xanh của Thanh Tâm Tuyền, đang là biểu tượng cho sự sống lộng lẫy của Texas. Tôi ngạc nhiên tự hỏi sao mỗi ngày tôi vẫn đi ngang qua đó nhiều lần, đôi lúc còn cúi xuống nhìn nó- khi vài tờ giấy vô tình rơi khỏi lòng bàn tay đậu xuống- nhưng tuyệt nhiên tôi không xúc động mảy may. Đóa hoa có thật, như hạnh phúc có thật không ồn ào giữa đêm ngày khoáng đạt. Đó là quá tặng hào phóng mà cuộc đời đã bù dắp cho mỗi chúng ta bên những bất hạnh, nếu có. Màu hoa chỉ rực rỡ mỗi một mùa xuân tàn, một tháng tàn, rồi thôi.

Tôi chảy nước mắt chua xót cho sự yếu đuối hèn mọn của mình. Đóa hoa nở mỗi năm một lần, trong khi mẹ tôi ngần ấy năm có bao nhiêu lần rung động? Bao nhiêu lần trái tim đập những nhịp đập hân hoan mê đắm?

Thế nào tôi cũng phải đi xa một chuyến, nhân dịp nghỉ phép hàng năm. Lần này không có mẹ tôi bên cạnh. Tôi trở lại phòng mình, trong bóng tối mờ nhạt của ánh sáng từ phòng khách dội lại, tôi âm thầm thu xếp vài thứ quần áo vặt vãnh. Như đêm nào giữa đêm mưa của đêm Sài Gòn, tôi đã thu xếp cho mình một cuộc chia tay giữa cha mẹ tôi. Không có một màu sắc nào khả dĩ làm bớt đi những tối tăm đêm đó, ngoài những nốt nhạc trôi đi và đọng lại bên thềm hành lang sũng nước. Hồi chuông kêu vang từ chiếc điện thoại. Tiếng kêu như một nỗi buồn chạy dài làm tôi không muốn đưa tay cầm ống nghe. Ở đầu giây bên kia giọng vui vẻ của mẹ tôi:

-A lô Mạc Lan đó phải không?

-Dạ.

-Con đang làm gì đó? Ăn cơm chưa?

-Con đang thu xếp quần áo. Con chờ mẹ về ăn luôn. Hôm nay sinh nhật mẹ?

-Ừ hứ. Mẹ đang gọi con ở hãng. Nếu đói con cứ ăn trước, đừng đợi. Mẹ sợ không về kịp trước tám giờ. Bye…

-Bye…



Đêm nay chú Năm sẽ về kịp để thắp dùm mẹ tôi những ngọn nến. Đó là những ngọn nến hạnh ngộ giữa hai cuộc đời bầm vập tan hoang, mới ngày nào còn mù mịt tối tăm giữa miền đất khổ. Những ngọn nến chảy xuống và định cư trên những ngày tháng phiêu bồng, ê hề hạnh phúc. Tôi sẽ đứng bên ngoài và bằng lòng với nỗi đau nhẹ nhàng của mình, thầm chúc hai người mãi trôi giạt cùng nhau bên dòng chảy đời thường. trong khi trái tim mình vang lên những nhịp đập khô khốc. Tôi không mua kịp một bó hoa nào gởi cho ngày sinh nhật của bà. Nhưng đâu có cần thiết. Vì những đóa hoa Bluebonnet ngoài kia đã nở rộ cho hai người…